Nằm ở phía Tây Nam huyện Sông Lô, xã Yên Thạch có tổng diện tích tự nhiên là 806,95 ha, với 2.199 hộ và 7.757 nhân khẩu. Phía Bắc, Yên Thạch tiếp giáp hai xã Như Thụy và Tân Lập, phía Nam tiếp giáp hai xã Đồng Thịnh và Tứ Yên (cùng huyện Sông Lô), phía Đông, Yên Thạch tiếp giáp thị trấn Lập Thạch và xã Xuân Lôi (huyện Lập Thạch), ở phía Tây là dòng sông Lô - ranh giới tự nhiên giữa Yên Thạch với huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
Xã Yên Thạch hiện có 9 thôn dân cư, Nhân dân sinh sống chủ yếu bằng nghề nông. Đồng hành cùng quê hương, đất nước trên hành trình xây dựng, phát triển, làng quê có tên nôm là Kẻ Bạch này luôn là vùng đất giàu trầm tích lịch sử - văn hóa, giàu truyền thống cách mạng, với những con người luôn cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất, anh hùng, bất khuất trong đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, xã Yên Thạch đã nhiều lần thay đổi địa giới hành chính với những tên gọi khác nhau. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, xã Yên Thạch thuộc địa phận các làng Yên Xá, Lập Thạch thuộc tổng Yên Xá, huyện Lập Thạch, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên. Cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương xóa bỏ đơn vị hành chính cấp tổng, thành lập đơn vị hành chính cấp xã là đơn vị hành chính cấp cơ sở. Tháng 10 năm 1946, theo chủ trương của Nhà nước, các làng Yên Xá, Lập Thạch cùng với các làng Thượng Yên, Yên Tĩnh, Thiều Xuân nhập lại thành liên xã Đồng Thịnh. Sau chia tách thành hai xã: Xã Đồng Thịnh và xã Yên Thạch. Địa danh Yên Thạch được ổn định đến ngày nay.
Trải qua hàng nghìn năm với những biến cố thăng trầm của lịch sử, song nét độc đáo của người dân Yên Thạch vẫn lưu truyền, tiếp tục được củng cố và phát huy mà ngôi đền Bạch là một minh chứng sống động. Đền được UBND tỉnh Vĩnh Phúc công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 1995, là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh, tín ngưỡng cộng đồng của Nhân dân địa phương. Tên gọi “Đền Bạch” là cách gọi dân dã gắn với tục danh Kẻ Bạch của xã Yên Thạch. Theo đó, đền còn được gọi là đền Yên Thạch.
Đền Bạch được xây dựng trên quả đồi cao thuộc thôn Minh Tân, xã Yên Thạch, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là vùng đất bán sơn địa thuộc phía Nam của huyện. Xưa kia vùng này có tên là làng Lập Thạch, tên nôm là Kẻ Bạch. Thời thuộc Hán, làng Lập Thạch thuộc huyện Mê Linh. Đời Tùy, thế kỷ VI, Lập Thạch thuộc quận Tân Xương. Từ thế kỷ VI đến thế kỷ X, Lập Thạch thuộc đất huyện Tân Xương của Phong Châu - Thừa Hóa quận, gọi tắt là quận Phong Châu. Đời Trần, thế kỷ XII - XIV, Lập Thạch thuộc châu Tam Đới (Tam Đái), lộ Đông Đô. Sang đời Lê và đời Nguyễn, đất này thuộc phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây. Năm 1891, Lập Thạch thuộc đạo Vĩnh Yên; năm 1899, đổi thành tỉnh Vĩnh Yên. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Chính phủ ta mở rộng phạm vi các xã, Lập Thạch sáp nhập với các làng Hoa Mỹ và Yên Xá thành xã Yên Thạch, tỉnh Vĩnh Yên. Năm 1950, hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên sáp nhập thành tỉnh Vĩnh Phúc thì Yên Thạch thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Tháng 3 năm 1968, Vĩnh Phúc sáp nhập với Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú thì Yên Thạch thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú. Tháng 1 năm 1997, tỉnh Vĩnh Phú chia tách thành hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ, làng thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 2009, huyện Sông Lô được thành lập trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính huyện Lập Thạch, thôn Minh Tân thuộc xã Yên Thạch, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đền Bạch là nơi thờ phụng Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn - nhà chính trị, nhà quân sự lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XIII, là người có công lớn hàng đầu trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông của dân tộc, chỉ huy quân đội Đại Việt đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên - Mông, năm 1285 và năm 1288. Từ khi đặt nền móng xây dựng, ngôi đền đã mang ý nghĩa sâu sắc trong việc giáo dục truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.
Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn là con An Sinh Vương Trần Liễu - anh ruột vua Trần Thái Tông, tức ông gọi vua Trần là chú ruột. Trần Quốc Tuấn sinh ngày 10 tháng chạp năm Nhâm Tý, Kiến Trung thứ 4, đời Trần Thái Tông (tức ngày 10 tháng 12 năm 1228), qua đời năm 1300. Từ nhỏ, ông đã tuấn tú, khôi ngô, thông minh, đĩnh ngộ hơn người. Đến lúc trưởng thành, ông là người văn, võ song toàn, thông tỏ nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, ông thường nghiên cứu binh pháp và là người nêu gương mẫu mực về lòng trung quân ái quốc, luôn đặt quyền lợi của đất nước lên trên hết. Tương truyền vì hoàng hậu không có con nên Thái sư Trần Thủ Độ bắt vua Thái Tông cướp vợ của anh trai là Trần Liễu đang mang thai, Vì thế mà giữa hai nhà sinh ra thù hận. Trước khi chết, Trần Liễu dặn lại Trần Quốc Tuấn phải cướp ngôi vua để trả thù nhưng khi đất nước có ngoại xâm, Trần Quốc Tuấn đã xóa bỏ hiềm khích, đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết. Năm 1285, quân Nguyên Mông xâm lược nước ta, nhà vua đã tin tưởng giao cho Trần Quốc Tuấn toàn bộ binh quyền để tổ chức chống giặc ngoại xâm. Trần Quốc Tuấn đích thân chỉ huy phòng tuyến phía Bắc, đánh bại quân Nguyên. Nhưng giặc chưa từ bỏ dã tâm xâm lược. Năm 1288, giặc Nguyên lại sang cướp nước ta lần thứ hai. Lúc này thế giặc rất mạnh, vua Trần Nhân Tông giao cho Quốc Tuấn chức “Tiết chế thống lĩnh chủ quân sự”, là chỉ huy tối cao các lực lượng vũ trang kháng chiến. Trước sự chênh lệch về lực lượng, nhà vua hỏi trăm quan nên hòa hay đánh, Quốc Tuấn trả lời “Nếu Bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu tôi trước đã”. Câu nói đó thể hiện ý chí chiến đấu của toàn dân, thấy rõ linh hồn cuộc kháng chiến chính là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Với bản tính trung thực công tâm trong kỷ luật, không dung tha sự tà khuất, ông tuyên bố với quân sĩ và các vương hầu ở Đông bộ đầu “Các vương hầu và các tướng sĩ, ai nấy cần phải giữ phép tắc, đi đâu không được nhiễu dân và phải đồng lòng hết sức đánh giặc, chớ thấy thua mà ngã lòng, chớ thấy được mà tự kiêu, việc quân có luật, phép nước không thân, các người phải giữ”. Cũng trong thời gian này, Hưng Đạo vương soạn bài “Hịch tướng sỹ” để cổ vũ quân dân kháng chiến. Bài Hịch đã thổi bùng lên tinh thần chiến đấu của quân sỹ và trở thành một áng văn bất hủ của nền văn học Việt Nam. Với sự chỉ huy tài tình của Hưng Đạo vương và các danh tướng khác, chỉ trong vòng hai tháng (5-6/1258) quân dân Đại Việt đã thắng 3 trận lớn ở: Hàm Tử, Chương Dương và trận Vạn Kiếp, chém đầu tướng giặc Toa Đô, quét sạch 50 vạn quân Nguyên ra khỏi bờ cõi.
Hai năm sau, năm 1258, quân Nguyên lại sang phục thù một lần nữa, vị đại tướng Hưng Đạo vương lại đứng ra thống lĩnh quân đội. Với tài mưu lược và cách dùng người sáng suốt, Hưng Đạo vương đã chỉ đạo quân Đại Việt đánh thắng các trận Linh Kinh, Da Mỗ, Bằng Giang, Vân Đồn và cuối cùng là trận Bạch Đằng Giang lich sử (1288) vĩnh viễn chôn vùi mộng xâm lược của triều đình Nguyên Mông, đem lại thời kỳ hòa bình, phát triển rực rỡ nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Cho đến ngày nay, nhắc đến công cuộc bình Nguyên là nhắc đến Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn người được toàn thể Nhân dân mến phục, tuân theo mệnh lệnh, tin tưởng vào tài điều khiển của Người để cùng chống giặc. Sau 3 lần chiến thắng quân Nguyên, tên tuổi của Hưng Đạo vương vang dội cả bốn phương, ngay cả người Trung Quốc và người Nguyên đều nể trọng. Ông được Trần Thánh Tông gia phong là Đại Vương, Thượng Quốc Công và đích thân nhà vua làm bài văn bia ở sinh từ của ông, tôn lên hành Thượng phụ. Ngoài ra ông còn nổi tiếng vì đã soạn ra sách “Binh gia yếu lược” và “Vạn kiếp bí truyền thư” để truyền lại cho tướng sỹ.
Ngày 20 tháng 8 năm1300 tức năm Canh Tý, Long Hưng thứ 8, Hưng Đạo Đại vương tạ thế tại nhà riêng ở Vạn Kiếp. Trước khi mất, ông dặn lại vua Trần Anh Tông cách giữ nước: “Tùy thời chế nghi, thu được binh sỹ đồng lòng như cha con thì mới có thể đánh được…phải nới sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, ấy là thượng sách giữ nước vậy”. Sau khi Hưng Đạo mất, cả nước làm quốc tang, vua Anh Tông thân hành đi xe mộc ngựa trắng đến trông nom việc tang và sắc truy phong ngài là Thái sư Thượng phụ, Thượng Quốc công, Bình Bắc Đại Nguyên súy, Long Công Thánh Đức, Vĩ Liệt Hồng Huân, nhân võ Hưng Đạo Đại vương. Đền thờ ông tại Vạn Kiếp còn có tên gọi là “Đền Kiếp Bạc”. Suốt bao thế kỷ qua, Nhân dân Việt Nam ghi tạc công ơn to lớn của Hưng Đạo đại vương đối với đất nước. Ông là một biểu tượng tuyệt đẹp của người Việt về tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái to lớn, đức độ, tài năng và ý chí chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền bờ cõi.
Vào năm Tân Hợi (1851) các vị bô lão và các dòng họ ở làng Lập Thạch xưa đã cùng nhau trẩy về Kiếp Bạc rước chân nhang về lập đền, đặt tên là Minh Thiện Đường để tỏ lòng ngưỡng mộ công lao của đại vương. Trong đền còn lưu giữ 03 sắc phong đình lành cả, phong ông là “Thượng Đẳng Thần”.
Đền Bạch được xây dựng trên một quả đồi cao, nơi trung tâm làng Yên Thạch xưa, thẳng hướng chính Nam. Phía trước đền là hồ Thủy Tú và cánh đồng lúa xanh như thảm lụa uốn quanh những dải đồi. Khi mới xây dựng, đền gồm một quần thể có quy mô lớn với ba tòa, cổng và tường vững chắc. Năm 1926, thời vua Bảo Đại, đền được trùng tu toàn bộ, vững chắc và bề thế. Sau hai cuộc chiến tranh, đền chỉ còn giữ được hậu cung. Đến nay, Nhân dân địa phương xây dựng lại đại bái và phần ống muống nối với hậu cung tạo nên ngôi đền kiểu chữ Công (公) vững chắc. Từ ngoài vào, bước qua nhiều bậc tam cấp lên đến đại bái với ba gian lợp ngói âm, có ba khuôn cửa có vòm rộng, thoáng đãng. Gian giữa trưng bày bức đại tự “Trần Thánh Vương Từ” nghĩa là đức Thánh Trần được thờ cúng tại đền; hai bên cột cái treo đôi câu đối; hậu cung cách đại bái một khoảng sân rộng chừng 3m cũng là chiều dài của phần ống muống. Ở đây cũng được bài trí câu đối và án thờ. Tòa đại bái ba gian dựng trên thềm cao chừng 0,60m gồm 10 cột cái và 6 cột quân. Kết cấu phần mái gian giữa theo kiểu chồng bồn kẻ chuyền. Lối ra vào qua ba khuôn cửa thấp, rộng, có bậc cửa gỗ, cao 0,40m, trên có chạm mộc mặt hổ phù và hoa lá. Trên khuôn cửa gian giữa phía ngoài treo bức đại tự, ghi dòng chữ “Đông A hiển thánh” nghĩa là: thời Trần hiển thánh. Phía trong, dựng một khám thờ, cao 1,50m sơn son. Hai bên cửa và các cột đều được vẽ thếp các hình rồng, kỷ hà, hoa lá... Trên khám thờ đặt ngai và tượng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng một số đồ thờ. Dưới gầm thượng cung đặt ban thờ ngũ hổ. Ở gian bên trái đặt ba cỗ ngai thờ ba vị Đức Phúc Thần Thạch Sơn từ đình làng chuyển về. Phía ngoài treo bức đại tự của đình làng, khắc 4 chữ: “Tùng nhạc giáng thần” (có nghĩa là: Núi cao giáng thần). Gian bên phải đặt ngai thờ các con trai và con gái của Hưng Đạo Vương.
Về nghệ thuật chạm trổ
Các bức chạm ở đền Bạch tuy không còn nhiều nhưng khá đẹp, tập trung ở các đầu bẩy, hậu cung. Mặt trong bẩy ở hai gian giữa chạm hai bức họa tiết giống nhau, trung tâm là một con rồng to gấp khúc, thân rồng vắt qua đầu nối lên sát mái đền, vẩy to, tròn, xếp lớp, đuôi và vây xoắn xuýt như hoa xòe, hai râu rồng lớn uốn về phía trước; phía ngoài sát đầu bảy chạm cảnh sen, rùa và cá. Bên kia đầu rồng chạm chim phượng múa đầu ngoảnh ra sau; mặt ngoài hai bẩy chạm nổi hình rồng và mây cụm, đuôi rồng được tạc cách điệu như chiếc lá uốn lượn, đầu rồng ngoảnh ra sau, miệng rồng ngậm ngọc, phía sau chạm nổi những họa tiết tựa như thân rồng ẩn hiện; đầu bẩy hai gian bên chạm hình ly uốn cong, bờm tóc dài phủ trùm kín lưng, phía trước tạo các họa tiết hoa lá cách điệu, phía sau sát đầu bảy chạm hình rùa (quy) lưng chở nghiên bút, miệng ngậm nhành lá mềm mại; trên câu đầu gian giữa và các đầu dư, đầu kẻ hiên đều được chạm mộc hoa lá cách điệu; trên khám thờ, ngoài các hình vẽ thếp trên cửa cây xà đỡ dưới khám được trang trí ba ô chạm nổi hình mai hóa rồng rất sinh động.
Về các di vật trong di tích:
Di vật gỗ: Ngai thờ chính của đền đặt chính giữa thượng cung cao 0,80m, sơn son thếp vàng rực rỡ và có cách tạo dáng đặc biệt, thân ngai không có 6 cột tiện cổ bồng quen thuộc mà là hai con rồng lớn gấp khúc, đầu ngẩng cao tạo thành tay ngai, miệng há ngậm ngọc, bờm tóc bay tua tủa dữ tợn, thân rồng nhiều vẩy tròn, uốn vồng lên, chân 4 móng xòe rộng, các vây gai và 2 đuôi rồng xoắn xuýt đan lại với nhau tạo thành lưng đai, trong lòng ngai đặt tượng Hưng Đạo Vương. Ngoài ra trong đền còn có 5 cỗ ngai, trong đó 3 cỗ ngai đặt ở ban thờ gian bên trái là của ngôi đình Cả chuyển về, đây là các ngai thờ của ba vị Nguyễn Nham, Nguyễn Tiễu thi đỗ tiến sĩ và Nguyễn Tuấn thi đỗ cử nhân đời vua Lý Thái Tổ. Sau khi vua Lý mất, trong triều đình có sự tranh chấp quyền lực, ba ông bỏ lên vùng Lập Thạch dạy học, sau khi ba ông hóa, nhiều làng đã dựng đình thờ cúng. Hiện nay, chỉ còn đình Vĩnh Quang ở thuộc thôn Đoàn Kết, xã Yên Thạch, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc còn giữ được ngọc phả và sắc phong của triều đình nhà Nguyễn, cho ba ông. Cả ba cỗ ngai này đều được tạo dáng giống nhau, có cùng kích thước, cao 1,20m, bệ đế 30 x 50cm, được tạo kiểu chân quỳ dạ cá chia thành các băng ô chạm mặt hổ phù, dơi càm thọ, tứ linh và hoa lá màu sắc bóng bẩy rực rỡ. Trong mỗi ngai đều có đặt bài vị thờ Đức Phúc Thần Thạch Sơn.
Ngai thờ các con của Hưng Đạo Vương đặt ở ban thờ bên phải thượng cung, cao 0,70m, sơn son thếp vàng, được tạo dáng tương tự như ngai thờ chính. Thân ngai thể hiện hình hai con rồng uốn khúc, đầu ngẩng cao, phần mục dục ở trong chạm nổi chữ Thọ, xung quanh chạm chim phượng và long mã.
Trong đền, hiện còn lưu giữ một cỗ kiệu bát cống, chỉ còn bành kiệu và hai chiếc đòn nhỡ, dài 1,2m. Hai đòn kiệu được tạo dựng với 4 đầu đòn là 4 đầu rồng ngẩng cao, miệng há ngậm ngọc, bờm ngắn, nhọn, vuốt ngược, sau mỗi đầu rồng lại chạm một con rồng nhỏ uốn khúc; đế bành kiệu chia thành nhiều băng, ô được chạm thủng, chạm lộng các hình chim phượng múa, hoa thị, hổ phù, dơi càm thọ và hoa lá. Hai mặt bên chạm hoa sen và mặt hổ phù, 4 chân đế chạm lộng đầu rồng và cành lá.
Đền Bạch còn có hai con nghê gỗ, cao 0,60m, được tạc ở tư thế ngồi, hai chân trước xòe 4 móng đặt lên quả cầu, mắt lồi to dữ tợn, miệng nhe rộng, bờm tóc xoắn xuýt, thân chạm nổi nhiều vây tròn to xếp lớp. Đây là đôi nghê to, đẹp mang nhiều giá trị quý giá còn được lưu giữ tại đền.
Tiếp đến là bát hương to bằng gỗ, cao 0,60m, phần đế chạm kiểu chân quỳ dạ cá, chính giữa mặt trước chạm nổi chim phượng xòe rộng cánh, đầu đội mặt nguyệt có đao lửa, phía dưới là con rùa sải chân bơi, miệng ngậm một nhành lá, lưng được che khuất bởi một tạo hình lá sen to úp ngược, 02 bên rùa có 02 con long mã trầu vào đầu ngẩng cao, đuôi uốn vắt lên chạm tóc. Hai bên bát hương chạm 02 con rồng to uốn khúc to từ dưới lên, đầu trầu vào giữa, đuôi xoắn cong sát sau thân rồng chạm hoa sen, cánh to đều đặn. Mặt sau bát hương chạm rồng chầu mặt nguyệt, chân đế chạm hổ phù càm thọ và hoa lá. Bát hương gỗ này là tác phẩm điêu khắc nổi bật rất tỉ mỉ, tinh xảo và sống động, thể hiện trình độ tay nghề cao của nghệ nhân ta xưa, là một cổ vật đẹp và quý của ngôi đền.
Trong đền còn có ba chiếc mâm bồng, gồm một mâm bồng ống viền cánh sen, sơn son thếp vàng. cao 0,30m, đường kính 0,60m, xung quanh chạm nổi hình tứ linh rực rỡ.
Tiếp đến là ba án thờ nhỏ, dài 0,75m, rộng 0,5m, cao 0,40m, bốn mặt chia thành các băng, ô chạm các hình kỷ hà, hoa thị, chữ thọ và nhiều họa tiết cách điệu tinh xảo.
Kế nữa là ba chiếc mâm sà loại nhỏ, bốn mặt chạm tứ linh và hoa lá, ngoài ra còn nhiều cổ vật bằng gỗ rất đẹp và còn nguyên vẹn như: 11 đài rượu, 4 cây sáp, một bảng chúc, 3 hòm sắt, 7 lộc bình gỗ, một bảng khắc gỗ sơn then (đen), 22 triện gỗ các loại, hai hòm triện dấu.
Kế đến là 4 bức đại tự, gồm:
- Bức thứ nhất dài 1,50m, rộng 0,60m, đề chữ “Cao Thanh Túc” (nghĩa là: sung túc thanh cao) nền đỏ, chữ thếp vàng, treo ngay cửa thượng cung.
- Bức thứ hai dài 2,0m, rộng 0,60m, đề chữ “Đông A hiển thánh” (nghĩa là: thời Trần hiển thánh).
- Bức thứ ba dài 2,0m, rộng 0,60m, đề chữ “Trần Thánh Vương Từ”, (nghĩa là đức Thánh Trần được thờ cúng tại đền) nền sơn đen, chữ thếp vàng, bốn góc có trang trí hoa văn tinh tế.
- Bức thứ tư dài 2,1m, rộng 0,60m, đề chữ “Tùng Nhạc giáng thần”, (nghĩa là: Núi cao giáng thần).
Tiếp nữa là ba bộ câu đối:
+ Bộ thứ nhất dài 2,0m, sơn then bóng, trên đề:
Thời thế tạo anh hùng Bạch khí tiềm sinh thiên giới Bắc
Tịnh quang lưu vũ trụ đơn tâm thượng bỉnh địa cầu Nam.
Có nghĩa là:
Thời thế tạo anh hùng khí tốt sinh ra từ trời bắc
Sáng soi nơi vũ trụ tâm thành trọn vẹn trời nam
+ Bộ thứ hai dài 1,9m, cũng sơn then, chạm triện, gấm, đề:
Sinh vi tướng hóa vi thần chính khí lưu hình thiên địa tịnh
Công tại triều danh tại sử uy linh hách dịch cổ kim truyền
Tạm dịch là:
Sống ngài làm tướng, hóa làm thần, khí tiết trung trực trời đất phải chiều
Ngài có công trong triều, lưu danh sử sách, uy linh lưu truyền mãi
+ Bộ thứ ba dài 1,9m, chữ nổi trên nền sơn đen, khắc hình triện gấm, đề:
Hồng vừng Đông A sinh hiển thánh
Bạch Đằng thần tích trấn Nam bang”
Tạm dịch là:
“Nhà Trần sinh thánh có mây hồng che
Trận Bạch Đằng chấn động nước Nam”
Về hiện vật bằng gốm sứ
Gồm có:
- Một lư hương bằng gốm Thổ Hà, cao 0,30m, đắp nổi lưỡng long chầu nguyệt, chữ thọ, mặt hổ phù.
- Ba lư hương bằng sứ;
- Hai bát men xanh, đường kính rộng 0,17m, trang trí hoa văn.
Đặc biệt trên ngai thờ nơi thượng cung đặt tượng Hưng Đạo Vương tạo bằng đất, sơn son thếp vàng rực rỡ, cao 0,80m. Tượng ngồi trên ngai uy nghi, miêu tả Trần Hưng Đạo đầu đội mũ đồng cầu, chạm mặt nguyệt, hoa lá, mặt đầy đặn, mắt nhìn thẳng, mình khoác áo quan võ đắp nổi tứ linh, tay áo rộng xếp nếp trùm quá gối, tay để trên đùi thư thái, chân đi hài cong chạm hoa cúc.
Về di vật giấy
Hiện nay, tại đền Bạch còn lưu giữ hai đạo sắc: Sắc thứ nhất phong cho Trần Quốc Tuấn, nội dung: “Khải Định nhị niên tam nguyệt thập bát nhật (tức ngày 16 tháng 3 năm 1917, BBT) sắc Vĩnh An tỉnh, Lập Thạch huyện, Lập Thạch xã, phụng sự Trần triều Hưng Đạo Vương tôn thần hộ quốc tý dân lẫm trứ linh ứng…Dực bảo trung hưng thượng đẳng thần”. Sắc phong thứ hai phong cho nguyên phi của ông, nội dung ghi: “Khải Định nhị niên nhị nguyệt thập bát nhật” (tức ngày 18 tháng 2 năm 1917, BBT).
Về di vật đá
Trên thềm hậu cung dựng một tấm bia, kích thước 0,55m x 0,40m, đề 4 chữ lớn “Hậu đường bia ký”, trán bia chạm rồng chầu mặt nguyệt, ba bề khắc chìm hoa sen cách điệu. Nội dung bia đại ý: Bên tả có sông Lô giang, bên hữu có núi đá, ở giữa có ngôi đền thờ đức Thánh Trần. Đền làm năm Tân Hợi (1851), đến năm Bính Tuất (1862) mới hoàn thành, tròn 11 năm.
Đền Bạch xã Yên Thạch là nơi thờ phụng Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn - một danh nhân, danh tướng, danh thân nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XIII, người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông của dân tộc, được các triều vua sau phong là “thượng đẳng thần”. Ông là một vị tướng tài kiêm văn, võ, biết đánh giá đúng vai trò quan trọng của Nhân dân, nền tảng của xã tắc và của lực lượng quân sự, là người biết đề ra một đường lối quân sự ưu việt, có tính chất Nhân dân, mà tiêu biểu là hai cuộc rút lui chiến lược khỏi Kinh thành Thăng Long, tránh cho nhà Trần những tổn thất lớn và tạo thời cơ bẻ gãy lực lượng của địch. Cùng đó, là những kế hoạch “vườn không nhà trống” trên khắp các nẻo đường mà giặc đi qua, những hoạt động phối hợp nhịp nhàng giữa hương binh và quân đội chính quy của Nhà nước, những trận phục kích lừng danh như trận Bạch Đằng đã làm cho tên tuổi của ông sống mãi với thời gian.
Cũng ngôi đền Bạch, những năm 1946 - 1947 còn là trường học duy nhất ở xã, đào tạo ra nhiều cán bộ, đảng viên và những người con ưu tú cho quê hương, góp phần hữu ích cho đất nước. Năm 1948 - 1949, đền Bạch còn là trụ sở Ủy ban kháng chiến hành chính của hai xã Đồng Thịnh - Yên Thạch, là nơi hội họp của các đoàn thể trong vùng. Năm 1950 - 1951, đền là trụ sở của Ủy ban hành chính huyện Lập Thạch và là nơi tập trung quân chủ lực địa phương để năm 1952 tham gia đánh trận Xuân Trạch (Lập Thạch) lịch sử.
Hằng năm, vào các ngày 14,15,16 tháng Giêng âm lịch, tại đền Bạch thường diễn ra lễ hội truyền thống khai xuân - khai sắc của địa phương. Trong lễ hội có nhiều nghi thức, hoạt động phong phú, như múa lân, các trò chơi dân gian, thi đấu thể thao… thu hút đông đảo khách thập phương và các tầng lớp Nhân dân tham gia, với tâm niệm “Đi lễ cả năm không bằng ngày Rằm tháng giêng”. Qua lễ hội khai xuân - khai sắc này, đã góp phần giáo dục đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đồng qua việc tìm hiểu về lịch sử nguồn gốc của di tích, thân thế, sự nghiệp, công tích vị thánh được Nhân dân tôn kính thờ phụng nơi đây, qua đó, có thêm nhận thức sâu sắc về công ơn của vị anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Từ đó làm tăng thêm giá trị của di sản văn hóa, tạo không khí phấn khởi, vui tươi lành mạnh trong Nhân dân, giữ gìn, bảo vệ và phát huy nét đẹp văn hóa của địa phương.
BBT
Admin